Sự chứng ngộ không ngăn che của Đức Phổ Hiền |

Sự chứng ngộ không ngăn che của Đức Phổ Hiền

Kim cương thừa

Quán đảnh cho giác tánh phô diễn
Minh giải về sự quán đảnh cho giác tánh  – phô diễn từ sự chứng ngộ không ngăn che của Đức Phổ Hiền Samantabhadra

Tới Đức Phổ Hiền Samantabhadra và Đức Kim Cang Tát Đỏa Vajrasattva,
Tới Đức Kim Cang Cực Hỷ Prahevajra và Đức Diệu Đức Hữu Manjushrimitra,
Tới Đức Cát Tường Sư Tử Shri Singha và tất cả các bậc minh sư khác,
Tới các bậc minh sư dòng truyền thừa 3 thân, con xin đảnh lễ!

Bậc minh sư vĩ đại, mang danh Liên Hoa Sinh Padmasambhava, thân Ngài không bị nhiễm trước bởi những uế cấu của một thai tạng tử cung, hóa thân chói sáng của Ngài được sinh ra từ một bông hoa sen tự xuất hiện, là bậc đế vương chiến thắng của các đấng phẫn nộ, bậc chinh phục 4 Ma, sắc thân của Ngài thì tựa một chày kim cang, bất biến và bất hoại.

Bậc đế vương quyền uy này, đấng đạt được thành tựu vô thượng phi thường, được khẩn thỉnh nhờ lòng bi mẫn của pháp thân chư Phật và được quán đảnh, trao quyền bởi tất cả báo thân chư Phật. Và rồi khi tất cả hóa thân chư Phật đã cùng hội ý, Ngài đã xuất hiện như bậc nhiếp chính của Đức Phật Shakyamuni trên lục địa Nam Diêm Phù Đề nằm ở phía Nam của Núi Tu Di Sumeru. Ngài đã dạy những giới luật trong 8 mộ địa, phụng sự như bậc nhiếp chính ở Ngai Kim Cương xứ Ấn, và, nhờ năng lực của những thệ nguyện từ xa xưa, Ngài đã tới xứ tuyết Tây Tạng khiến cho những giáo lý của Đức Phật được lan tỏa và hưng vượng.

Sau đó, trong Hang Động Lớn của Samye Chimphu, Ngài đã ban 4 quán đảnh trong sự trọn vẹn lên Đức Vua Trisong Deutsen cùng Bà Tsogyal, Công Chúa xứ Kharchen. Vào lúc đó nhà vua và công chúa đã thấy những dấu hiệu kỳ diệu và thành tựu hơi ấm của thực hành, vì vậy từ lòng tín tâm và sùng mộ, họ đã dâng lên thỉnh cầu này: Xin hãy lắng nghe, hỡi đạo sư vĩ đại! Điều gì là ý nghĩa khi, vào lúc khởi nguyên, một người được ban quán đảnh với những biểu tượng và dấu hiệu, bao gồm chiếc bình, bên trong mạn đà la bột màu?

Đạo Sư đáp: Hãy nghe đây, Nhà Vua và Công Chúa xứ Kharchen. Mọi giáo huấn của những bậc tỉnh giác trọn vẹn và chân thực được dạy trong 3 cách: ý nghĩa thiết thực khế hợp, mục đích ẩn tàng ý nghĩa xác quyết đáng tin cậy. Giữa những cách này, ý nghĩa thiết thực khế hợp có mục tiêu chỉ bày, dẫn lối thiện xảo chúng sinh với nhận thức sai lầm tới các cõi giới cao hơn.

Mục đích ẩn tàng là khi một bậc bồ tát sử dụng năng lực khéo léo của mình như một pháp môn để giải thoát chúng sinh khỏi những khổ đau của sinh tử.
Ý nghĩa xác quyết đáng tin cậy có 3 giai đoạn tịnh tiến. Như là thành quả của tất cả giáo huấn từ các thừa thấp hơn, cái thấy Trung Đạo tự do khỏi sự tập trung để nhằm an định vào một trạng thái tự do của những giới hạn. Những gì mà những người đi theo Kinh giáo gọi là sự thiếu vắng của cái ý niệm hóa là để nhằm an định vào trạng thái tự do của người nhận thức và cái được nhận thức. Lên đến điểm này thì không có sự ban truyền quán đảnh thực sự nào khác hơn là một dấu hiệu đơn thuần hay sự chỉ định.

Theo tất cả các Mật điển của Mật Chú, một người được ban quán đảnh cái bình. Để nhận lãnh cái thấy của tánh không như thành quả tịnh hóa che chướng của nghiệp, và việc được ban cho quán đảnh cái bình nhằm mở ra cánh cửa đi vào phần bên trong của Mật Chú, 5 trí tuệ được chỉ định nhờ những ngôn từ. Như vậy nó là một quán đảnh biểu tượng.

Quán đảnh cái bình này là quán đảnh đầu tiên trước hết. Nó có thể khiến con tịnh hóa che chướng của những xúc tình rối loạn, mở ra cánh cửa đi vào các giáo lý thâm sâu, và là cơ hội để được nhận quán đảnh nhằm vun trồng, trưởng dưỡng bổn tôn hóa thần và thực hành nghi quỹ sadhana. Quả của nó là trở nên có thể làm chủ mọi sự thuộc về bình chứa và những thành phần của nó.

Ngài đã nói như vậy.

Một lần nữa họ hỏi: Xin hãy lắng nghe, hỡi đạo sư vĩ đại! Vào lúc quán đảnh bí mật, tại sao một người cần huân tập, rèn luyện trong các kinh mạch và các gió khí năng?

Đạo Sư trả lời: Hãy nghe đây, Nhà Vua và Tsogyal. Bên trong pháp giới của Sắc Cứu Cánh Vô Thượng Akanishtha, pháp thân và báo thân cùng cái chúng ta gọi là mạn đà la trí tuệ thể nghiệm không bao gồm một thân vật chất, vì vậy chúng không có kinh mạch dựa trên sự tự hiện hữu thân trí tuệ mà cũng là một khối cầu pháp tánh của 5 ánh sáng tỏa chiếu tự nhiên. Chúng không có các loại gió khí năng nghiệp mà được trang hoàng với 4 loại gió khí năng trí tuệ. Sắc thân của chúng là sự bất biến; khẩu của chúng là sự liên tục, không ngừng dứt; và tâm của chúng an trụ trong trạng thái bất động của sự bình đẳng. Với chúng, không cần tới quán đảnh bí mật, vì phương tiện và trí tuệ là bất nhị.

Trong hóa thân, mặc dù nó có một sắc tướng vật lý, cái giống như một ảo ảnh huyễn thuật, nhưng kinh mạch trí tuệ lại có sức mạnh lớn lao, và gió khí năng trí tuệ thì có lực lượng vĩ đại. Vì vậy hóa thân không có sự nhiễm ô của các xúc tình loạn động. Như vậy nó chuyển thành một thân trí tuệ nhờ đơn giản được chỉ cho quán đảnh bí mật biểu tượng.

Với chúng sinh, những người có một thân tướng được sinh ra bởi vô minh, các kinh mạch của các xúc tình loạn động có sức mạnh lớn lao, gió khí năng trí tuệ có lực lượng vĩ đại, và các kinh mạch cùng các gió khí năng trí tuệ phải yêu cầu có khả năng, cách thức và kĩ thuật mới thấy được; do vậy, thật là tối quan trọng để huân tập, rèn luyện trong các kinh mạch và các loại gió khí năng. Khi một người đã huân tập, thì vô minh lắng xuống vào một trạng thái ngầm, ẩn tàng và các kinh mạch của các xúc tình loạn động trở nên được tinh lọc; và khi các gió khí năng nghiệp được tịnh hóa, thì toàn bộ thân thể trở thành mạn đà la trí tuệ. Như vậy, sự huân tập trong các kinh mạch và khí năng này là rất quan trọng. Huân tập trong các kinh mạch và khí năng trong khi ở trong thân người làm chuyển hóa nó thành thân trí tuệ.

Trong 3 cõi thấp hơn, kinh mạch trí tuệ và khí năng trí tuệ nằm ngự một cách ẩn tàng, ngầm vì vậy không có con đường để giải thoát. Các thân của hầu hết các loài động vật đều hướng mặt xuống dưới, và vì vậy chúng có những kinh mạch và khí năng bị u tối và câm. Các thân của hầu hết các ngạ quỷ thì nằm ngang, và vì vậy họ có những kinh mạch và khí năng thèm khát. Các thân của hầu hết chúng sinh địa ngục đều có đầu hướng xuống, vì vậy họ có những kinh mạch và khí năng đau đớn cực độ về thể xác hoặc tinh thần. Như vậy, chúng sinh trong ba cõi thấp hơn không phải là các bình chứa thích hợp cho các huấn thị cốt tủy.

Trong thân người, một phần tư các kinh mạch và khí năng thuộc về dạng trí tuệ, vì vậy hãy kiên trì trong việc huân tập các kinh mạch và khí năng của các con!

Ngài đã nói như vậy.

Họ lại hỏi: Xin hãy lắng nghe, hỡi đạo sư vĩ đại! Vào lúc được ban quán đảnh tri thức trí tuệ, điều gì là ý nghĩa của việc nâng cấp tinh chất thuần tịnh các đại?

Đạo Sư nói: Hãy nghe đây, Nhà Vua và Tsogyal. Ý nghĩa của tri thức trí tuệ là cái mà các khí năng nghiệp quả của các xúc tình loạn động được tịnh hóa nhờ sự huân tập các kinh mạch và khí năng, nhờ vậy các khí năng chuyển động đều bên trong các kinh mạch trống rỗng, điều mang lại sự gia tăng thể nghiệm tánh không. Đó được gọi là tri thức.

Vào lúc đó, có nhiều loại phương pháp khác nhau để làm nâng cấp tinh chất các đại, như dựa vào thực phẩm bổ dưỡng, mặc quần áo mềm và ấm, sử dụng niềm vui thú của các trang sức đẹp, dùng các loại đá quý cát tường, và giữ một người đồng hành tuyệt đẹp. Nhờ phương tiện của những điều này, một người nên, cũng như dòng suối chảy về phía trước, đi vào trong bất kỳ thung lũng khô hạn nào, hãy đặt một người vào các phương pháp làm nâng cấp tinh chất thuần tịnh của các đại.

Không để nó tiêu tán như nước ở trong một nơi tồi tệ, mà thay vào đó, một người nên, giống như để cho nước chảy cùng nhau vào làm lấp đầy một hồ nước đẹp và rồi từ đó, một người có thể tưới nước ra 4 phương, thì cũng vậy, hãy hướng tinh chất thuần tịnh các đại đi lên. Điều này sẽ ngăn chặn các kinh mạch của các xúc tình tiêu cực, ngăn chặn, triệt tiêu các khí năng nghiệp, và thúc đẩy tất cả kinh mạch và khí năng trí tuệ.

Hạt bindu bất hoại của sinh lực trong trung tâm luân xa tim thì hỗ trợ, nâng đỡ mạn đà la trí tuệ. Khi dẫn dắt các tinh chất thuần tịnh, nó sẽ nâng cấp mọi phẩm tánh tốt lành nhờ vậy thân thể con sẽ đầy màu sắc và tỏa sáng, khẩu ngữ của con phát ra trong một cách làm phát sinh hỷ lạc, và tâm con trở nên trong sáng, yên tĩnh, tự do khỏi niệm tưởng. Vào lúc đó, nếu con nối kết điều này tới những giáo huấn cốt tủy thâm sâu, thì trạng thái bất thoái chuyển là không đòi hỏi nỗ lực. Thậm chí nếu con để lại nó vào chính nó, thì ngay khi rời bỏ cuộc đời này, con sẽ tái sinh trong Cõi Trời Ba Mươi Ba.

Trong cách này, con trở nên có thể hành động và hoạt động mang lại về phía trước trí tuệ nhờ phương tiện các giọt binđu. Nếu hành giả yogi thực hành con đường quán đảnh trí tuệ tri thức này mà không sở hữu sự quán đảnh và thực hành, người ấy sẽ không viên mãn những phẩm tánh của con đường và các cấp độ.

Ngài đã nói như vậy.

Họ lại hỏi: Xin hãy lắng nghe, hỡi đạo sư vĩ đại! Xin hãy giải thích chi tiết ý nghĩa của việc chỉ ra bản tánh tâm của một người là pháp thân, khi ban truyền tất cả 4 quán đảnh trong sự trọn vẹn.

Đạo Sư nói: Hãy nghe đây, Nhà Vua và Tsogyal. Thông thường, mọi thể nghiệm, cái thuộc về sinh tử và niết bàn là sự hợp nhất của sắc tướng và tánh không, trong khi phẩm chất trống rỗng là vượt trội. Toàn thể thế giới này – ở trên, ở dưới và trong 4 hướng chính Đông Tây Nam Bắc và các hướng phụ – thì ở trong sự rộng mở trống rỗng của hư không. Ở giữa, đất, đá và núi, tất cả thì hoại diệt và trở nên trống rỗng vào lúc cuối. Các chu kỳ của mặt trăng và sự thay đổi biến thiên của 4 mùa cũng là những dấu hiệu của việc trở nên trống rỗng.

Mọi chúng sinh và các dạng thức sống được sinh ra và chết đi như nhau. Hãy so sánh tới những chúng sinh có được một thân vật lý, một sự vĩ đại hơn những người không có. Hơn nữa, việc đạt được niết bàn nghĩa là trở nên được giải thoát bên trong pháp giới hư không của tánh không. Trong cách này, mọi sự trở nên trống không, và như vậy, mọi thứ xuất hiện và hiện hữu là trạng thái của tánh không. Vì vậy, đừng bị gắn kết và bám chấp vào nhị nguyên. Không cần phải bị bám chấp vào bất kỳ điều gì hết cả, mà hãy an trụ trong tính tương tục, tiếp diễn không ngừng của trạng thái tỏa khắp toàn triệt vĩ đại của việc chứng ngộ tánh không, cái không thuộc vào phạm trù nào hết. Hãy để yên trong trạng thái tự do khỏi những cấu trúc, tạo dựng tinh thần.

Hãy chắc chắn rằng tánh không là bản chất của hầu hết giáo huấn. Từ ngay lúc khởi thủy, đó là phẩm chất đặc biệt của cái thấy có chủ ý. Nếu con thất bại, lầm lạc để hiểu nghĩa của tánh không, con sẽ mang bản thân mình vào sự chấp chặt các đối tượng được nhận thức của 6 tập hợp và tiếp tục lang thang trong vòng sinh tử. Nếu con có được thành tựu sự xác quyết về bản tánh của tánh không, con làm gián đoạn, ngưng lại dòng chảy của sinh tử, và sự lừa dối hoàn toàn được tịnh hóa. Mặt khác, nếu, không phải là tánh không thực sự, con lại đi lạc vào ý niệm của tánh không, hoặc sai lầm, thất bại để hiểu trạng thái bình đẳng và thay vào đó lại xao lãng vào một trạng thái biếng nhác thì không có sự lạc đường nào tồi tệ và xấu xa hơn sự hiểu làm tánh không như vậy. Vậy, phải nhờ vào một vị thầy với điểm then chốt của các huấn thị thâm sâu, và sự tinh tấn, bền bỉ trong thực hành.

Ngài đã nói như vậy.

Họ lại hỏi: Xin hãy lắng nghe, hỡi đạo sư vĩ đại! Xin hãy giải thích cho chúng con chi tiết ý nghĩa của việc ban truyền tối thượng nhất giữa tất cả các quán đảnh – sự quán đảnh tới giác tánh – phô diễn – cũng như những điểm then chốt của thực hành cùng ý nghĩa của thành tựu quyền làm chủ nắm vững lên giác tánh.

Đạo Sư nói: Hãy nghe đây, Nhà Vua và Tsogyal. Một người thọ nhận 4 quán đảnh được nhắc tới ở trên một cách tuần tự. Một người hành trình qua các cấp độ và con đường trong thành tựu và không thể thức tỉnh ngay tức khắc. Những giáo huấn trên con đường tịnh tiến được dạy bởi các hóa thân vì lợi lạc chúng sinh.

Sự quán đảnh cho giác tánh – phô diễn được dạy bởi chư Phật, những bậc được viên mãn tự nhiên nhờ bản tánh và, lưu xuất ra các hóa thân bi mẫn từ pháp giới của Sắc Cứu Cánh Vô Thượng Akanishtha, các Ngài dạy nó vì lợi ích của sự thức tỉnh tức khắc tới những người có định mệnh, vận may cao nhất. Vì vậy không thể đạt được phật quả mà không được nhận lãnh quán đảnh tới giác tánh – phô diễn.

Tất cả chư Phật của quá khứ đã thức tỉnh sau khi nhận lãnh quán đảnh tới giác tánh – phô diễn. Tất cả những ai thành tựu giác ngộ trong hiện tại cũng thức tỉnh sau khi nhận lãnh quán đảnh tới giác tánh – phô diễn. Và từng vị Phật đạt giác ngộ trong tương lai cũng sẽ thức tỉnh sau khi nhận lãnh quán đảnh tới giác tánh – phô diễn. Không thể nào đạt tới giác ngộ trừ khi con đã nhận được nó.

Đức Liên Hoa Sanh
Trích từ Kho tàng chỏm núi bách xù

Comments are closed.

MẠNH MẼ ĐỂ GIÁC NGỘ - BE POWERFUL TO ENLIGHTEN
Thông tin liên quan đến dòng Truyền Thừa Ripa Vinh Quang đã được Đức Pháp Vương - Đại Khai Mật Tạng Terchen Namkha Drimed Rabjam Rinpoche ban phước. Cầu mong kho tàng giáo lý Terma thâm diệu của dòng Truyền thừa Ripa Vinh Quang sẽ làm an dịu mọi nổi thống khổ của chúng sinh mẹ tại đất nước Việt nam thân yêu.

Om Ah Hung Maha Sengha Mani Radzaa Sarwa Siddhi Phala Hung