Một người thông tuệ có thể được lợi ích từ
những người khác mà không làm tổn hại tới họ
giống như một chú ong có thể nhấm nháp
mật từ một bông hoa mà không làm tổn hại nó.
Ngay từ khởi thủy, năng lượng thô và năng lượng vi tế từ các nguyên tố của chúng ta vốn bất khả phân với tánh không. Khi chúng ta thể hiện, biểu lộ bản thân mình một cách phấn khích thái quá thì chúng ta đã thổi phồng và phóng đại năng lượng nguyên tố thô của mình và chúng ta cũng làm đè nén năng lượng nguyên tố vi tế của mình.
Kết quả là năng lượng của chúng ta bị hướng phần lớn vào vật chất, và như vậy, mối nối kết tự nhiên của nó với tánh không bị che chướng và chắn ngang. Vật chất thì vốn là vô thường nên khi những hoàn cảnh mới sinh khởi và đối tượng vật chất của năng lượng phấn khích từ chúng ta bị thay đổi hoặc bị mất đi, thì năng lượng của chúng ta cũng bị mất đi và chúng ta cảm thấy lo âu, buồn chán. Trong cách này thì năng lượng của chúng ta giống như một dòng sông có một dòng chảy tự nhiên. Nếu năng lượng của một dòng sông là quá mức và dư thừa thì nó sẽ trở thành lũ lụt. Sau đó, khi năng lượng lũ lụt của nó cạn kiệt thì cái còn lại chỉ là một tàn tích đổ nát còn sót lại.
Nếu chúng ta để cho năng lượng thô của mình thành lũ lụt thì chúng ta sẽ dễ dàng trở nên bị mệt mỏi do tâm thức bị mất đi sự hỗ trợ năng lượng vi tế của nó. Nếu nhờ những phương tiện thiện xảo, mà chúng ta có thể gìn giữ, bảo tồn năng lượng vi tế nhờ việc biểu lộ nó một cách cẩn trọng trong những lượng nhỏ với những khoảng lặng được ngưng đọng lại thì một cách tương đối và tạm thời, nó sẽ tốt cho sức khỏe và tâm trạng của chúng ta, dù cho chúng ta có ở một mình hay ở cùng với mọi người, và một cách tận cùng và tối hậu, nó sẽ có ích cho chúng ta khi chúng ta trở nên già cỗi hơn.
Đôi khi chúng ta lo ngại sức mạnh từ năng lượng của mình sẽ bị lãng phí nếu chúng ta không sử dụng nó ngay lập tức khi cơ hội tự nó xuất hiện. Nhưng những vấn đề có thể phát sinh nếu dạng thức của tâm được biểu lộ ngay lập tức trong sự phản ứng lại với những hoàn cảnh. Sức mạnh được biểu lộ mà thiếu đi sự nhìn xa trông rộng, sự lường trước được tình huống thì rốt cuộc nó chỉ luôn đem lại sự đảo ngược từ cái tự tin thành cái bất lực thảm hại.
Một số người trong chúng ta nghĩ rằng sức mạnh thô hữu hình là hiệu quả nhất khi nó được biểu lộ một cách rõ ràng, dễ thấy được hơn là sự thong thả, thản nhiên vô hình. Nhưng khi chúng ta chỉ có thể nhìn thấy những gì ở ngay phía trước mặt mình mà không thể dự phòng, chuẩn bị trước được cho tương lai, thì điều này chỉ là sự vô minh. Nếu một con sư tử hoang dã cố gắng giết con gấu ở phía trước mình, trong khi nó lại không ý thức được về tay thợ săn đang dình dập để cố gắng giết nó từ phía sau thì nó đã đánh mất sức mạnh của mình.
Theo tập quán thế gian, thì mỗi khi chúng ta lên những kế hoạch kinh doanh, buôn bán hay cố gắng tổ chức, sắp xếp cuộc sống của mình thì tốt nhất là giữ gìn năng lượng được giới hạn lại mà không phô bày nó ra hết, chỉ cho tới khi chúng ta thu được những kết quả (theo kiểu đầu tư dần dần, từng bước). Theo tập quán Giáo Pháp thì cũng là tốt nhất khi giữ năng lượng của chúng ta được giới hạn lại, chỉ cho tới khi chúng ta đã phát triển được sự xác tín. Theo cách đó thì thậm chí nếu kết quả không đến ngay lập tức thì năng lượng của chúng ta sẽ không bị phung phí và cạn kiệt.
Con người ta không thể nhìn thấy tâm vô hình của mỗi một người khác, chỉ cho tới khi những hoàn cảnh phát sinh. Và dạng thức của tâm trở nên dễ nhận thấy thông qua sự biểu lộ, và nó có thể được tiếp xúc cũng như được can dự vào. Thậm chí trước khi điều này xảy ra thì những dạng ma quỷ, tinh linh hay vong linh nào đó cũng có thể nhận biết được rồi. Nhưng nhờ việc giữ năng lượng của mình được giới hạn lại với tâm thức mạnh mẽ và thư thái thì chúng ta có thể bảo vệ và làm lợi ích cho bản thân mình. Những bậc thiêng liêng và siêu phàm với tâm thức trong suốt có thể cũng nhận biết được những gì vẫn chưa được biểu lộ ra ngoài, nhưng là theo một cách tự nhiên, vì các ngài có Tâm Trí Tuệ, và các ngài chỉ làm lợi lạc cho chúng ta mà thôi.
Tới mức độ mạnh mẽ và đầy tràn, thì năng lượng vốn sẵn trong các nguyên tố của chúng ta sẽ trợ giúp cho tâm thức của chúng ta. Để làm gia tăng sức mạnh, năng lực cho năng lượng của mình, thì chúng ta cần phải có một phương pháp cùng một mục đích. Ở đâu có một mục đích, thì ở đó có năng lượng. Ở đâu có năng lượng, thì ở đó có sức mạnh, năng lực. (hoặc câu nói quen thuộc “There is a will, there is a way” – Ở đâu có ý chí, ở đó có một con đường) Chẳng hạn, khi muốn được ấm áp, nếu chúng ta tập trung về phía hỏa đại thì chúng ta có thể trở nên ấm áp. Khi muốn mát mẻ, nếu chúng ta tập trung về phía thủy đại cùng phong đại thì chúng ta có thể trở nên mát mẻ. Điều này là nhờ sự tập trung mà chúng ta có thể làm cho những nguyên tố vi tế khác nhau trở nên dễ dàng nhận thấy hơn với năng lực, sức mạnh vật chất. Nếu chúng ta hướng mục đích của mình vào những phương tiện vật chất thì nó sẽ luôn luôn là sự vô thường, bởi vì mục đích là một phần của ý niệm, và nó cũng vốn vô thường. Nếu mục tiêu của chúng ta chỉ là để đạt được những năng lực, sức mạnh thế tục cho lợi lộc tạm thời của mình hơn là để trở nên giác ngộ, thì dù chúng ta có hướng mục đích vào bất cứ đâu đi chăng nữa với những nguyên tố thô và vi tế của mình, thì chúng ta cũng chỉ có thể đạt được mục tiêu của mình trong một thời gian giới hạn và trong một cách giới hạn mà thôi.
Con người có thể làm gia tăng năng lực, sức mạnh cho năng lượng của họ với ý định tốt cũng như ý định xấu. Nếu ý định của họ là xấu ác, thì họ có thể gây tổn hại cho những người khác bằng cách chinh phục người khác để làm gia tăng năng lực, sức mạnh của riêng họ. Họ sẽ thành công nhờ sử dụng năng lượng từ các nguyên tố bên ngoài của mình, chỉ tới khi nào năng lượng từ các nguyên tố bên trong của họ, cái được tích lũy qua nhiều kiếp sống bị hao tổn và cạn kiệt. Một số lãnh tụ thế gian thì giống như vậy, và nhờ năng lực, sức mạnh từ năng lượng cùng những ý định xấu xa của mình, họ đã gây ra sự hủy diệt và khổ đau to lớn. Một số lãnh tụ thế gian khác như Mahatma Gandhi thì đã làm lợi ích cho dân chúng với năng lượng từ các nguyên tố thanh tịnh của họ. Với những người muốn giúp đỡ, hỗ trợ, xoa dịu và an ủi những người khác thông qua ý định tốt lành của mình, thì họ sẽ tái sinh như những bậc bồ tát.
Đôi khi, năng lượng nguyên tố thanh tịnh của tâm thức chúng ta có thể bị rối loạn từ xa bởi một tâm thức có năng lượng các nguyên tố bất tịnh. Ví dụ, nếu chúng ta đang mong chờ một vị khách, mà vị khách này lại có các nguyên tố bị ô nhiễm và mạnh mẽ hơn năng lượng trong các nguyên tố của chúng ta, thì năng lượng tâm thức của người đó có thể đi vào năng lượng tâm thức của chúng ta và làm rối loạn giấc ngủ của chúng ta. Vì năng lượng tâm thức của chúng ta thanh tịnh, thuần khiết và nhạy cảm hơn vị khách đó, nên sự mất cân bằng giữa các nguyên tố của họ và của chúng ta có thể gây ra một sự phá vỡ, chia tách trong tập khí, thói quen thường ngày về giấc ngủ của chúng ta và chúng ta có thể mơ về vị khách hoặc chúng ta sẽ bị chứng mất ngủ. Nếu tâm thức của vị khách là thuần khiết và thanh tịnh như tâm thức chúng ta, thì tâm thức chúng ta không thể bị xáo trộn. Nếu năng lượng của các nguyên tố chúng ta ít sức mạnh và năng lực hơn năng lượng các nguyên tố của họ, thì chúng ta buộc phải phụ thuộc vào một phương pháp đối trị để làm gia tăng sức mạnh, năng lực của mình. Khi năng lượng của các nguyên tố thanh tịnh chúng ta có năng lực và sức mạnh hơn năng lượng nguyên tố bất tịnh của vị khách đó, thì họ không thể làm rối loạn tâm thức chúng ta, và vì vậy chúng ta không cần một phương pháp đối trị để ngủ ngon. Chúng ta có thể nghỉ ngơi trong tâm thức cân bằng, thong dong và thản nhiên của mình, và một cách tối hậu thì chúng ta có thể là một lợi ích đối với họ.
Theo những cách của thế gian thì thực phẩm và thuốc men là phương pháp đối trị để có giấc ngủ thanh thản, nhẹ nhàng, và chúng ta chỉ có thể có được giấc ngủ này khi chúng ta có một tâm thức thanh thản và nhẹ nhàng.
Chúng mang cho chúng ta tâm thức mù mịt, tăm tối, nặng nề và nó khiến cho giấc ngủ của chúng ta nặng nề. Nhưng nếu chúng ta thực sự muốn gia tăng năng lực cùng sức mạnh năng lượng thanh tịnh của mình, thì chúng ta có thể quán tưởng bổn tôn, điều này sẽ làm mạnh lên tâm thức chúng ta, và với một tâm thức đầy tràn năng lực cùng sức mạnh thì nó không thể nào bị thâm nhập được. Nếu thực hành thiền định, thì chúng ta có thể hít vào tất cả các nguyên tố để các nguyên tố bên trong và bên ngoài của chúng ta được hòa trộn vào nhau bất khả phân, và tâm thức chúng ta được tỏa khắp mọi nơi, rồi sau đó hãy để nó tan biến vào không gian tịnh quang sáng tỏ. Nhờ làm cho tâm thức mình được nhẹ nhàng và sáng tỏ hơn thông qua sự quán tưởng hoặc thiền định, chúng ta có thể tăng trưởng những năng lực, sức mạnh như năng lực thấu thị và khả năng biết trước được tương lai, nhưng nếu chúng ta trở nên quá gắn kết và dính mắc tới những loại năng lực và sức mạnh này thì năng lượng của chúng ta sẽ bị mất đi tính linh động của nó. Vì vậy một cách liên tục và không gián đoạn, không chấp nhận cũng không chối bỏ, chúng ta chỉ cần sử dụng và làm gia tăng năng lượng thanh tịnh này.
Có vô số những loại năng lực khác nhau nhưng tất cả chúng có thể được chia thành 2 phạm trù khác biệt là: năng lực trí năng thông thường và năng lực thông tuệ cao quý. Nếu tâm thức chúng ta hạn hẹp và bình phàm thì nó thích hợp để cho những người khác sử dụng năng lực trí năng từ các nguyên tố bất tịnh nặng nề với chúng ta, bởi vì chúng ta không thể hiểu được sự uyên thâm, bao la và sáng tỏ. Thật vô phương nếu có ai đó sử dụng năng lực thông tuệ của các nguyên tố thanh tịnh vi tế để tác động một cách trực tiếp lên chúng ta, bởi vì bình chứa hay thùng chứa của chúng ta quá nhỏ bé để có thể giữ được nó lại. Với tâm thức hạn hẹp bình phàm của mình thì chúng ta không thể hình dung ra được yếu nghĩa thậm thâm, cũng như khả năng nhìn xa trông rộng để biết trước được những điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, vì mục tiêu của chúng ta bị giới hạn bởi ích lợi tạm thời, tương đối và trong chốc lát của bản thân mình trong việc vắt kiệt những người khác. Điều này cũng giống như việc xẻ thịt một con bò vốn đang cấp sữa cho chúng ta hàng ngày chỉ để ăn trong một bữa.
Những bậc thông tuệ cao quý thì không sử dụng hoặc không chấp nhận năng lực trí năng thông thường, bởi vì nó quá nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn, thô cứng, trì trệ, phiến diện một chiều và quá kém linh động về thời gian trong khi sử dụng. Nếu chấp nhận năng lực thông thường thì tâm thức chúng ta không thể mở rộng bao la bất tận.
Không có một tâm thức bao la bất tận thì chúng ta không thể có đại năng lực, và chỉ khi có đại năng lực thì chúng ta mới có thể thích nghi với nhiều căn cơ, điều kiện, khả năng cùng hoàn cảnh khác nhau giữa từng chúng sinh riêng biệt, để rồi chúng ta có thể hành động đúng lúc, đến và đi đúng lúc, giải thoát đúng lúc, giúp đúng lúc và khai thác đúng lúc.
Những người không có năng lực thông tuệ cao quý thường sử dụng những mưu mô, toan tính chính trị thế tục trong những nhóm tâm linh. Vì với những người muốn nghiên cứu hay học hỏi thường dựa vào những tập quán hay thể chế chính trị truyền thống xã hội, mà những tổ chức, thể chế Giáo Pháp lại không thể được hình thành nếu thiếu đi một số hình thức phụ thuộc vào những thể chế, tập quán trên. Nhưng, nếu chúng ta thực sự muốn thành lập những tổ chức, thể chế Giáo Pháp thanh tịnh thì chúng ta chỉ cần phải phụ thuộc một cách tạm thời vào những tập quán, thể chế từ các nguyên tố thô nặng của xã hội đó, để rồi một cách tận cùng, chúng ta sẽ vượt lên khỏi chúng và đi vào các nguyên tố thanh tịnh, nhẹ nhàng, phi tập quán, phi thể chế của trí tuệ. Nếu chỉ tin vào việc sử dụng năng lực các nguyên tố thô bất tịnh thông thường của mình nhằm giúp đỡ bản thân thì chúng ta sẽ tự động tạo ra những thứ bậc ngăn cản những người khác trong một cách tinh vi từ trạng thái bình đẳng. Và rồi những người có mong muốn bên trong được đưa bản thân mình lên tới một cấp độ thanh tịnh nhẹ nhàng hơn sẽ bị ép buộc phải sử dụng năng lực bên ngoài, và họ phải phụ thuộc vào những tổ chức, thể chế thế tục để thăng cấp, để đi lên. Cuối cùng, kết quả của kiểu phân chia thứ bậc, tôn ti trật tự này là những người ở trên bậc cao nhất ra sức đè nén và giữ những người khác ở dưới mình, và rồi tâm thức của tất cả mọi người đều trở nên nặng nề, giả dối.
Những người có tâm thức bình phàm và thông thường thì hay cố gắng để nắm bắt được tâm thức của những người ở cấp độ cao hơn – những người có ý định trân trọng tất cả chứ không phải là ý định làm cách mạng như những người tâm thức bình phàm. Nếu ý định tâm thức của chúng ta có thể kết nối với năng lực quang minh sáng tỏ bao la, thanh tịnh và tự nhiên nhờ cách bên ngoài phụ thuộc vào tập quán xã hội, trong khi bên trong, chúng ta lại dựa vào bản chất, tinh túy ánh sáng thanh tịnh nhẹ nhàng của các nguyên tố thì chúng ta có thể tạo ra năng lượng lớn lao và thanh tịnh hơn. Thậm chí nếu chúng ta chỉ sử dụng năng lực trí năng thông thường, thì khi gặp gỡ với những bậc sử dụng năng lực thông tuệ cao quý, chúng ta vẫn sẽ tự động có một cảm giác rộng mở hơn là cảm giác bị đẩy ra hay cảm giác bị hạn chế, giam cầm trong một cấp độ thấp hơn. Theo cách này, một số thiền giả năng lực và thanh tịnh tạo ra một trường lực an lạc xung quanh họ nhờ năng lực quang minh sáng chói tự nhiên của mình, và họ sử dụng các nguyên tố thanh tịnh này để hỗ trợ và giúp đỡ những người khác đạt được cùng cấp độ và hòa nhập cùng với họ trong cùng mạn đà la cũng như trong cùng tâm thức.
Tác giả: Đức Dungse Thinley Norbu Rinpoche
Nguyên tác: Vũ Điệu Huyền Diệu – Sự Hiển Lộ Tự Tánh của Ngũ Trí Dakini
Dịch từ bản tiếng Anh: MAGIC DANCE THE DISPLAY OF THE SELF-NATURE OF THE FIVE WISDOM DAKINIS