Những huấn thị cốt tủy của Đức Liên Hoa Sinh thì cực kỳ quan trọng bởi vì Ngài không chỉ là một nhân vật huyền thoại hay một truyền thuyết xa xưa. Ngài là một nhân vật có thực, bậc hoàn thành tự nhiên liên tục các hoạt động, gồm sự hóa hiện như các bậc khai mật tạng, vì vậy luôn có một giáo huấn tươi mới, không chút lầm lỗi để loài người có thể thực hành. Điều này cũng đảm bảo rằng sự ảnh hưởng tâm linh và những ân phước của Đức Liên Hoa Sinh được liên tục, không gián đoạn.
Trước khi rời Tây Tạng, Đức Liên Hoa Sinh đã cất giấu nhiều giáo huấn để sau này được khám phá lại bởi những nhân vật đặc biệt, những người được biết đến ở Tây Tạng như là các vị Terton hay “khai mật tạng – bậc hiển lộ kho tàng”. Do những thay đổi và biến động của lịch sử thế giới, Đức Liên Hoa Sinh đã cất dấu những thực hành đặc biệt khác nhau phù hợp tại những thời điểm khác nhau trong tương lai. Những giáo huấn ẩn mật này, được gọi là các terma, sau này được hiển lộ bởi các hóa thân tương lai từ các đệ tử thân cận của chính Đức Liên Hoa Sinh, những bậc thầy vĩ đại, những người khi trở lại thường chính là các hóa thân của Đạo Sư Liên Hoa Sinh. Phẩm chất đặc biệt của các giáo huấn terma này là nó cung cấp, mang đến một phương pháp thành tựu phù hợp đúng với từng thế hệ riêng biệt, thời điểm khế hợp, và với cá nhân những người sẽ gặp gỡ chúng. Những kho tàng giáo huấn Ngài đã ban truyền ở trên CHỎM NÚI BÁCH XÙ của Những Viên Ngọc Trai Pha Lê gồm ý nghĩa tinh hoa của hàng trăm giáo huấn như vậy.
Người biên soạn lại những giáo huấn này, ngài Yeshe Tsogyal, một hóa thân của vị phật mẫu được biết tới như là một Dakini trí tuệ. Nhờ học hỏi, phụng sự với Đức Liên Hoa Sinh như một đệ tử chính của Ngài, bà có thể dâng lên một sự phụng sự vĩ đại tới nhân loại nhờ việc biên chép, ghi lại, mã hóa và hệ thống những giáo huấn quý giá này cũng như cất dấu chúng cho các thế hệ tương lai.
Kham có một câu nói: “Hãy nói hết, như một bao tải đổ hết ra”. Thì ở đây cũng vậy, trong Những Kho Tàng Từ Chỏm Núi Bách Xù này, Đức Liên Hoa Sinh đã đổ hết bao tải của Ngài ra, – Ngài đã hoàn toàn phơi bày mọi điều. Ý nghĩa tinh hoa của hàng trăm giáo huấn được bao gồm ở đây; Ngài đã hoàn toàn đặt nó xuống một cách trần trụi.
Vì thế, khi đệ tử của tôi – Erik Pema Kunsang hỏi xin ý kiến về những gì để phiên dịch trong những câu hỏi và những câu trả lời giữa Đức Liên Hoa Sinh cùng các đệ tử của Ngài, tôi đã bảo anh ấy hãy dịch hết. Bạn cần một tuyển tập trọn vẹn, và nó không thực hiện để dấu giếm, che đậy các giáo huấn trên cái thấy, hay bỏ chúng ra ngoài. Nếu bạn làm vậy, những giáo huấn của Đức Liên Hoa Sinh sẽ không được trọn vẹn.
Mặc dù không có gì để tôi có thể phải thêm vào tuyển tập này, tôi chỉ xin mở rộng lên vài điểm như một sự trùng hợp ngẫu nhiên tích cực. Trước khi chúng ta có sự ổn định, vững mạnh trên cái thấy đúng, thì chúng ta trải nghiệm một cách nguyên sơ các hiện tượng sinh tử, những thứ bị méo mó và xuyên tạc. Để trải nghiệm đúng, chúng ta cần dựa vào những giáo huấn của các bậc giác ngộ và sau đó hiện thực hóa thực hành những gì chúng ta được học trong thực tế.
Đây là ý niệm truyền thống phổ biến về vạn pháp trong sinh tử:
Đầu tiên không hiện hữu được dạy, và bản chất tánh không được giải thích. Tiếp đó hiện hữu được dạy, và bản tánh thấu suốt, nhìn thấy được được giải thích Cuối cùng sự hợp nhất của hiện hữu và không hiện hữu được dạy
Điều này có nghĩa là bản chất và bản tánh, sự thuần khiết từ nguyên sơ và sự hiện diện tự nhiên là hợp nhất bên trong rigpa, giác tánh. Như vậy vạn pháp trong sinh tử được nói là xuất hiện trong khi không hiện hữu. Về bản chất, chúng không hiện hữu; về bản tánh, chúng hóa hiện. Tánh không và các phần sắc tướng của vạn pháp méo mó là bất khả phân. Không chút méo mó, vạn pháp thuần tịnh là sự hợp nhất của sự thuần khiết nguyên thủy và sự hiện hữu tự nhiên. Chúng nằm ngoài các đối tượng của ý niệm nhị nguyên, như một cầu vồng xuất hiện trong bầu trời. Nó có thể thấy nhưng không có tự tánh; không có gì để bám nắm và không có gì để giữ lại cả. Đây là một ví dụ cho sự tinh thuần, vạn pháp không méo mó.
Vạn pháp, được nhận thức bởi chúng sinh, ngày càng trở nên thô đặc, tồi tệ hơn. Vạn pháp đầu tiên được khởi thủy với cõi sinh tử được gọi là Không Hiện Hữu Cũng Không Vắng Mặt Ý Niệm. Từ nơi đó chúng ta lạc xuống 3 cõi sinh tử, nơi chúng ta lang thang do sự bám chấp vào phần sắc tướng trông thấy được. Đầu tiên 4 ý niệm hữu hạn về 4 cõi Vô Sắc xuất hiện, sau đó là 17 cõi Sắc Giới. Tiếp theo là 6 cõi của các vị chư thiên trong các cõi Dục Giới, và cuối cùng là sáu loài chúng sinh.
Như được mô tả bởi các vị thầy Kagyu, “Tinh túy tâm đồng sinh khởi là pháp thân; sắc tướng đồng sinh khởi là ánh sáng của pháp thân.” Ở đây sắc tướng xuất hiện liên quan tới vạn pháp thuần tịnh, không méo mó. Vạn pháp méo mó trở nên được gộp lại theo cách tăng dần. 4 cõi ý thức vô hạn là Vô Sắc; Sắc tướng trong 17 cõi trời Sắc giới là một dạng thức của ánh sáng. Trở nên hỗn hợp, cô đặc lại hơn là các thân tướng được làm từ thịt và máu trong 6 cõi Dục giới.
Vạn pháp méo mó bên ngoài là 4 đại chính gồm: đất, nước, lửa và gió. Ở giữa, chúng ta có thịt và máu, xương, thân nhiệt, hơi thở, các uẩn, và các quan năng. Tuy nhiên, vạn pháp từ khởi thủy lại thiếu đi sự hiện hữu rõ ràng. Vào giấc mộng của đêm hôm trước chúng ta trải nghiệm niềm vui và đau khổ, các xứ sở và nơi chốn, những tòa nhà và lâu đài, v.v… Chúng ta có thể mơ về tất cả những điều như vậy nhưng khi thức giấc thì không một giấc mơ nào là còn lại cả. Ngay lúc này vạn pháp hiện hữu hoàn toàn là do năng lực của sự mơ hồ.
Tuy nhiên nhờ thành tựu sự vững chắc trong rigpa, chúng ta không còn mơ hồ, và như vậy, như một dấu hiệu của sự không hiện hữu từ nguyên sơ của vạn pháp, chúng ta có thể tự do đi ngang qua chúng. Nếu vạn pháp là hiện hữu từ nguyên thủy thì chư Phật hẳn sẽ phải tiêu diệt chúng để đi qua chúng; nhưng các ngài không cần làm như vậy. Vạn pháp sở hữu thậm chí không có cả một nguyên tử vi trần của hiện hữu chắc thật, dù cho chúng ta có cảm thấy chúng nhờ các thể nghiệm theo những cách méo mó, xuyên tạc của mình. Chẳng hạn, với những chúng sinh địa ngục với những niệm tưởng bị ý niệm hóa, địa ngục dường như có hiện hữu chắc thật. Nhưng khi vượt lên, tự do khỏi những niệm tưởng ý niệm hóa đó, sẽ không có địa ngục thực sự.
Một bậc thầy như Đức Liên Hoa Sinh có thể tự do đi ngang qua đá và núi bởi vì sự vững chắc của Ngài trong sự thuần tịnh nguyên thủy, trong sự tỉnh giác tự hiện tiền. Đức Liên Hoa Sinh có những năng lực kỳ lạ đáng kinh ngạc như có thể bay qua bầu trời, đi xuyên qua các vật thể rắn, và không ngăn ngại trong việc giải thích tất cả Kinh điển, Luận tạng cũng như ý nghĩa của các Mật điển. Đây là những lý do khác giải thích cho việc tại sao có nhiều ân phước, gia hộ như vậy trong việc nối kết với những huấn thị và lời khuyên của Ngài.
Vào lúc nào đó trong tương lai, chúng ta sẽ sở hữu tất cả những phẩm tánh giác ngộ và sẽ được tịnh hóa mọi che chướng, và nhờ điều này, chúng ta sẽ thành tựu trạng thái giác ngộ vô song. Tuy nhiên, trước đó, chúng sinh không trải nghiệm phạm vi giác ngộ trọn vẹn. Sẽ rất tuyệt vời nếu những chúng sinh bình thường có thể thể nghiệm sự giác ngộ. Được nói rằng khi bạn chạm tới nó, sẽ không có gì là bất tịnh cả, không có sắc tướng, âm thanh hay trạng thái tâm – thậm chí không một hạt bụi nào là bất tịnh. Khi một vị yogi thành tựu nhận thức mọi thứ như là sự tương tục không gián đoạn của giác tánh thuần tịnh, thì toàn bộ thế giới bên ngoài sẽ là các cung điện linh thánh và những cư dân, chúng sinh thì có bản tánh của các Daka và Dakini.
Nhận thức trực tiếp tức thì của chúng ta đơn giản bị bóp mép. Khi sự méo mó ấy được quét sạch, thì mọi thứ bên trong thể nghiệm cá nhân của một người được thấy như là sự thuần tịnh. Những chúng sinh bình thường thì không thể nhận thức được sự thuần tịnh này, nhưng nhờ việc tự mình trở thành một yogi thành tựu, bạn sẽ thấy nền tảng thanh tịnh này. Đây là sự khác biệt giữa nhận thức cá nhân và nhận thức của những người khác: bạn có thể nhìn thấy những chúng sinh khác là tịnh khiết bởi vì họ vốn sẵn tịnh khiết rồi, nhưng do những che chướng của mình, nên chính họ không nhận thức được sự thuần tịnh này. Với một yogi thành tựu, mọi thứ bên trong và không hiện hữu là sự thuần tịnh của thân, khẩu, tâm, phẩm tánh và hành năng giác ngộ, với một yogi như thế, họ nhận thức được sự bình đẳng vĩ đại của sinh tử và niết bàn.
Sự giác ngộ thì giống như việc thức tỉnh khỏi giấc ngủ. Những tư duy ý niệm hóa tạo ra mọi nhận thức và hiện tượng của cuộc sống thường nhật, cũng như bất kỳ điều gì bạn trải nghiệm vào buổi đêm được tạo ra bởi giấc ngủ. Khi thức dậy từ giấc ngủ, giấc mộng tan biến. Không gì còn sót lại của sự mơ hồ hiện diện này khi thể nghiệm bị bóp méo và sự mơ hồ của tư tưởng ý niệm được hoàn toàn quét sạch. Những hóa hiện của các pháp thì chỉ đơn thuần là sự phô diễn, hiển hiện của ánh sáng cầu vồng. Khi không có sự phô diễn, hóa hiện, đó chỉ là hư không thuần khiết nguyên thủy.
Thể nghiệm trần tục của vạn pháp được gọi là nhận thức méo mó, nhận thức mơ hồ của chúng sinh. Trong thể nghiệm của những người có nhận thức thuần khiết, ngôi nhà sẽ là một cung điện linh thánh. Trong cung điện linh thánh, không có sự thể nghiệm của đất, nước, lửa và gió. Mọi thứ đều là ánh sáng cầu vồng. Thật ngạc nhiên làm sao! Những ngôi nhà là những ngôi nhà của ánh sáng cầu vồng. Bạn không thể nói chúng không hiện hữu, bởi vì chúng không có cảm giác chắc chắn về đất, lửa, nước và gió. Điều này biểu lộ sự không hiện hữu nguyên sơ của chúng.
Giác tánh cần phải trở về với không gian nội tại. Đã bị thất lạc trong tiến trình trượt sâu vào vòng sinh tử, rigpa cần phải trở lại lối mòn theo bước đi của chính nó và trở về với sự thuần khiết nguyên thủy. Hiện tượng nhị nguyên của thế giới và chúng sinh sở hữu thậm chí không đáng giá dù chỉ một đầu lọn tóc của hiện hữu đích thực. Sự thuần tịnh nguyên thủy thì không có sự cụ thể rõ ràng. Vạn pháp của sinh tử và niết bàn hóa hiện từ không gian hư không của sự thuần tịnh nguyên thủy. Các hiện tượng khác nhau của của trạng thái thức tỉnh được tỏa khắp toàn triệt bên trong các khuôn mẫu, đóng khung của tư duy ý niệm. Khi bạn đặt nền tảng trên trí tuệ tỉnh giác, cái vượt lên khỏi các tư duy, khái niệm, thì hiện tượng sinh tử chỉ như một chiếc máy chiếu phim bị sụp đổ. Bạn có thể tạo ra Đại Thế Chiến Thứ 3 trong một bộ phim, nhưng khi bộ phim dừng chiếu thì chiến tranh cũng ngừng lại.
Những dấu hiệu khác nhau sẽ xảy ra khi chúng ta áp dụng những giáo huấn tới những tình huống riêng của mỗi người, và thật tốt để thấy rõ những dấu hiệu đích thực của tiến trình trong sự thực hành. Chẳng hạn, khi thiền định về một bổn tôn, một người nên có một linh ảnh về vị này. Cũng có những dấu hiệu chung, phổ biến của giai đoạn hoàn thiện như nhìn thấy những ánh sáng, khói, một ảo ảnh,v.v… Chúng ta có thể thực sự nhận thức được những dấu hiệu ban phước này bằng mắt thường.
Sau đó cũng có những thể nghiệm thiền định được biết như là nyam, điều không nằm trong đời thực cũng không ở trong giấc mộng, mà nẳm đâu đó ở giữa. Chúng ta có thể có thể nghiệm của đại lạc và tánh không. Chúng ta có thể nghĩ: “Hôm nay giác tánh của tôi thật kinh ngạc, trần trụi và bất biến, tự do khỏi nhị nguyên, tự do khỏi ràng buộc, gắn kết tới những thể nghiệm của an lạc, trong sáng, và vô niệm. Giác tánh thật không thể tưởng tượng!” Một cảm giác như vậy thì cũng chỉ là một thể nghiệm thoáng qua thôi, tuy nhiên nó là một dấu hiệu của sự thực hành.
Không phải tất cả những dấu hiệu đều là tốt, có lúc nó tốt, có lúc nó không tốt. Đôi khi chúng ta thấy không thể thiền được, rất khó để ngồi, chúng ta cảm thấy thất vọng và bực bội, – những trạng thái như thế thuộc vào các thể nghiệm không thoải mái. Hai dạng thể nghiệm này, thoải mái và không thoải mái, đều là những dấu hiệu của thực hành. Nhưng dù điều gì có xảy ra, thì tất cả những thể nghiệm này chỉ đơn thuần là những đám mây bên trong bầu trời của sự thuần tịnh nguyên thủy. Đôi khi bầu trời âm u với những đám mây, đôi khi bầu trời ít mây. Dù cho mặt trời tỏa sáng từ một bầu trời ít mây được điểm tô với những cầu vồng, hay dù cho trời mưa, bão, hay tuyết, thì tất cả chỉ là những kinh nghiệm.
Tuy nhiên, giữa những dấu hiệu của thực hành, có 2 trạng thái: thể nghiệm và chứng ngộ. Dấu hiệu đích thực của thực hành là để tâm bạn tự do khỏi bám chấp, tự nhiên và không chút khó khăn nào. Một dấu hiệu tốt khác, và một trong những thành tựu quan trọng là khi tâm bạn cảm thấy ở điểm dễ dàng đầy ắp lòng sùng mộ, sự tín tâm và cảm giác bi mẫn, như bầu trời tràn khắp với sự ấm áp của ánh dương. Tuy nhiên thành tựu đích thực là để duy trì không bị ảnh hưởng bởi những thể nghiệm an lạc, trong sáng và vô niệm, trong khi trở nên tự do khỏi 2 che chướng của thiền định là: Hôn trầm và Trạo cử. Hôn trầm nghĩa là không thực sự nhận biết được giác tánh của bạn là sáng tỏ hay không sáng tỏ, nhưng trong thực tế là giác tánh của bạn bị che chướng. Có 3 loại hôn trầm: cảm giác mờ tối, sự uể oải lơ mơ như buồn ngủ và bị che chướng. Cũng có 3 loại trạo cử: cảm giác tán tâm, kích động và lãng đãng.
Tóm lại thì một chút bám chấp mong manh nhất cũng có thể làm hại tới thực hành của chúng ta. Việc chặt đứt niệm tưởng nên được tự động, nhưng nếu chúng ta không cảnh tỉnh để nhận ra mình bị che chướng và thay vì trở nên lơ tơ mơ, hoặc nếu chúng ta trở nên kích động và tâm thức thấy nó không thể yên lặng, chúng ta cảm thấy mình không thể cắt đứt niệm tưởng. Một khi chúng ta tự do, thoát khỏi hôn trầm và trạo cử, thì cái thấy sẽ không bị ngăn che. Giác tánh kéo dài trong bao lâu phụ thuộc vào việc làm thế nào chúng ta trở nên quen thuộc với nó?
Phương pháp hoàn hảo để trở nên nhanh chóng quen thuộc tới trạng thái không hư cấu của giác tánh là có lòng sùng mộ tới những bậc giác ngộ và có lòng bi mẫn dành cho những chúng sinh chưa giác ngộ. Sau đó, được nói rằng: “trong khoảnh khắc của yêu thương, bản chất trỗng rỗng mọc lên một cách trần trụi” (một đoạn trích trong Lời Nguyện Khát Khao Đại Ấn nổi tiếng của Đức Karmapa thứ 3). Cả lòng sùng mộ và lòng bi mẫn đều là tình yêu thương. Thân, khẩu và tâm có thể cảm thấy tràn ngập với tình yêu thương, và nếu sau đó bạn nhìn vào bên trong, nó giống như một vầng mặt trời không bị ngăn che bởi những đám mây. Đây là cách mà các hành giả của dòng Kagyu và Nyingma có thể đạt giác ngộ mà không cần phải học. Với một chút thấu hiểu lý thuyết, các ngài có thể làm gia tăng thể nghiệm, sự trang hoàng vĩ đại của giác tánh. Trải nghiệm này cần phải không bị dính mắc vào sự bám chấp nhị nguyên vì nếu thể nghiệm với sự bám chấp thì sẽ không có lợi ích nào.
Việc nhanh chóng đạt được giác ngộ phụ thuộc vào tín tâm và lòng sùng mộ hướng về Tam Bảo, cùng lòng từ bi hướng về những bà mẹ chúng sinh. Bản tánh của tánh không có thể biểu hiện trần trụi khi chúng ta có những điều này. Đây là con đường vô thượng của sự hợp nhất không lầm lỗi.
Phẩm chất đặc biệt của Phật pháp là sự hợp nhất không lầm lẫn của 2 trường phái vĩnh cửu và hư vô. Rơi vào một trong những quan điểm trên là một sự giới hạn cản trở tiến trình trên con đường chánh đạo. Với quan điểm sự hợp nhất – bản tánh tâm là cả sự trống rỗng và nhận biết – sự nhận biết quét sạch trường phái vĩnh cửu. Sự hợp nhất này là sự nhận biết trống không được lấp đầy với cái biết. Không có sự hợp nhất này, một người sẽ nói rằng tâm là vĩnh cửu; người khác sẽ tuyên bố rằng nó là trống rỗng. Rơi vào những sai lầm như vậy, các quan điểm hư vô và vĩnh cửu tạo ra kinh nghiệm nhị nguyên của một người nhận thức và một đối tượng được nhận thức.
Lòng sùng mộ và bi mẫn là những kỹ thuật tuyệt hảo, những phương tiện tối hảo. Chúng thì tốt hơn gấp cả trăm lần việc thiền định trên các bổn tôn và tụng niệm các thần chú. Trong những giáo huấn Đại Viên Mãn, chúng ta thường nói rằng chỉ có lòng bi mẫn và sùng mộ tự nhiên, không hư cấu là quan trọng, nhưng chúng ta cần phải bắt đầu bởi việc gây dựng tín tâm và lòng bi.
Dù cho sự sùng mộ và bi mẫn thì đã sẵn sàng hiện diện bên trong giác tánh, bản chất của chính bạn, nhưng vào lúc khởi đầu bạn cần hư cấu những cảm giác sùng mộ và bi mẫn bởi vì lòng sùng mộ tự nhiên, không hư cấu hay lòng bi mẫn không toan tính thì không nảy nở ngay lập tức. Tuy nhiên, khi bạn trở nên tăng trưởng ổn định trong giác tánh, bạn sẽ tự nhiên cảm thấy lòng bi mẫn hướng về chúng sinh, hãy nghĩ: “Chúng sinh thì không ý thức được về bản tánh quý giá nhất này, điều mà giống như phật quả trong lòng bàn tay của một người!”
Lòng sùng mộ được hỗ trợ bởi những suy nghĩ như: “Thật tuyệt diệu làm sao để có thể cắt đứt được nền tảng và gốc rễ của sự mơ hồ. Thật không thể tin được, sự viên mãn của mọi đức hạnh này, cái làm tan biến, hút sạch mọi lầm lỗi. Không gì siêu việt hơn giác tánh này!” Như vậy bạn làm tăng trưởng sự tín tâm.
Nếu chúng ta biết làm cách nào để thực hiện, thì chỉ cần đơn giản thiền về tánh không là hoàn toàn đủ khả năng thâm nhập vào nó; nhưng nếu bạn thực sự không nhận ra tánh không đúng, thì chỉ nhờ lòng bi mẫn bạn mới có thể được hướng tới tánh không. Kết quả tốt nhất là bạn cần là cả tánh không và lòng đại bi, được gọi là tánh không được lấp kín với lòng bi mẫn.
Lòng sùng mộ và bi mẫn đích thực thì giống như hơi ấm mùa hè làm tan chảy băng giá mùa đông. Hãy nhìn vào bản chất của sùng mộ, bạn sẽ trực tiếp gặp mặt giác tánh trần trụi. Đó là lý do vì sao lòng sùng mộ lại quý giá và quan trọng đến thế.
Tánh không mà thiếu đi lòng bi mẫn thì không bao giờ được dạy như con đường đích thực của giác ngộ. Nước sẽ luôn luôn ẩm ướt. Không có sự thấu hiểu về tánh không, sẽ không có chúng sinh nào thành tựu giác ngộ cả. Một khi bạn đã thực sự nhận ra tánh không, bạn sẽ tự nhiên có lòng bi mẫn và suy nghĩ: “Thật kỳ diệu làm sao nếu tất cả chúng sinh có thể nhận ra điều này!”
Đức Tulku Urgyen Rinpoche
Từ những giáo huấn khẩu truyền tuyển chọn của ngài