“Hãy quán tưởng sức mạnh của sự hỗ trợ, Kim Cương Tát Đỏa, và đi trước bởi sức mạnh của sự ăn năn, cảm xúc hối lỗi vô bờ và sự tiếc nuối về các hành động xấu xa và lỗi lầm phạm phải, hãy thực hành phương cách đối trị, sức mạnh của sự áp dụng, quán tưởng để trì tụng thần chú”.
Đức Karmey Khenpo
Thực hành Kim Cương thừa được cho là tạo ra rất nhiều nguy hiểm lớn lao nhưng cũng có những thuận lợi lớn. Ví dụ về điều này là thành ngữ về con rắn trong ống tre, chỉ có thể đi lên hoặc đi xuống; không có phương hướng nào khác mà con rắn có thể bò đi. Giống như vậy, với hành giả đã bước đi trên con đường Kim Cương thừa chỉ có thể đi lên hay đi xuống. Kim Cương thừa không giống như các thừa thấp hơn, ở đó không có nhiều nguy hiểm nhưng cũng không thể đạt được nhiều điều.
Con rắn không thể sang trái hay phải của ống tre, nó chỉ có thể lên trên hay xuống dưới. Nếu người ta giữ gìn giới nguyện tốt đẹp, duy trì trong tỉnh giác, chắc chắn trong đời này và thân này, họ có thể đạt được cấp độ Bậc Kim Cương trì hợp nhất, trạng thái giác ngộ hoàn toàn. Nếu người ta không thể giữ gìn giới nguyện bí mật của Kim Cương thừa, họ chắc chắn sẽ đi xuống, chìm vào nơi được gọi là Địa ngục Kim Cương trong Kim Cương thừa hay Địa ngục Vô Gián trong giáo lý Hiển giáo. Đây là một thái cực với hành giả. Thái cực kia là đi đến trạng thái Pháp thân, trong Dzogchen điều này được miêu tả là “an hòa nhưng trong trạng thái không che chướng của trí tuệ bên trong.”
Rất khó để giữ gìn giới nguyện. Người ta nói rằng phá vỡ giới nguyện chẳng hề có công đức nào ngoại trừ việc những lỗi lầm như thế có thể dễ dàng tịnh hóa. Một giới nguyện bị mất có thể được tịnh hóa bằng sám hối, bằng cách ăn năn thừa nhận lỗi lầm của bản thân. Điều này thì không đúng với các thừa thấp hơn. Ví dụ, khi Biệt giới giải thoát, giới nguyện Tiểu thừa của tu sĩ và cư sĩ bị phá hỏng, chúng hoàn toàn không thể cứu vãn. Giống như đánh rơi một bình gốm, nó sẽ bị hỏng hoàn toàn. Khi một vị tăng phá hỏng một trong các giới chính, toàn bộ 253 giới bị hỏng và mất hoàn toàn. Các giới chính yếu này không thể sửa chữa lại.
Nhưng các giới nguyện Kim Cương thừa giống như vết sứt trên bình bằng vàng hay bạc: nó bị rơi, có một vết sứt, nhưng vết sứt có thể được sửa chữa và chiếc bình sẽ như cũ.
Có bốn giai đoạn của sự phạm giới nghiêm trọng: vi pham, vi phạm lớn [rạn nứt], vi phạm nghiêm trọng, và hoàn toàn làm hỏng. Bất cứ điều gì khác ngoài hoàn toàn làm hỏng thì không gì khác hơn một vết sứt trên chiếc bình bạc, nó có thể được sửa chữa. Người ta có thể sửa chữa các giới nguyện bị hỏng bằng cách áp dụng bốn sức mạnh chữa lành, liên quan đến việc trì tụng thần chú Trăm Âm, cốt
tủy về tâm của chư Phật. Bằng cách làm như vậy chắc chắn sẽ sửa chữa các giới nguyện bị mất. Nhưng việc sám hối cần phải được thực hiện trong vòng ba năm; khi ba năm trôi qua mà không có sự sám hối, giới nguyện sẽ mất hoàn toàn và không thể sửa chữa.
Có bốn sức mạnh chữa lành để tịnh hóa các giới nguyện bị hỏng. Đầu tiên là sức mạnh của hỗ trợ. Tốt nhất nó nghĩa là khắc ghi trong tâm sự hiện diện sống động của toàn thể một trăm bổn tôn an bình và phẫn nộ. Nhưng, bởi tất cả một trăm vị bổn tôn đều hiện thân trong một vị Phật duy nhất, Đức Kim Cương Tát Đỏa, hoàn toàn có thể đơn giản là quán tưởng Đức Kim Cương Tát Đỏa trên đỉnh đầu chúng ta. Quán tưởng một trong hai cách trên được gọi là sức mạnh của hỗ trợ.
Tiếp theo là sức mạnh của phương thức đối trị được áp dụng, giống như là lấy xà phòng và nước rồi rửa tay. Sự chữa lành được áp dụng là thực hành tưởng tượng chủng tự HUNG màu trắng được vây quanh bởi một trăm chủng tử ở trung tâm trái tim ngài Kim Cương Tát Đỏa. Từ chuỗi thần chú quanh chủng tự HUNG ở trung tâm trái tim, ánh sáng chiếu ra mọi phương, cúng dường đến chư Phật và Bồ Tát. Nó cũng chiếu tỏa đến mọi hữu tình chúng sinh, tịnh hóa che chướng và lỗi lầm của họ. Khi ánh sáng này hội tụ trở về, cam lồ bắt đầu chảy xuống từ trung tâm trái tim đức Kim Cương Tát Đỏa. Cam lồ tuôn ra từ ngón chân cái và chảy xuống đỉnh đầu hành giả. Cam lồ trí tuệ này dần tịnh hóa mọi ác nghiệp, che chướng, bệnh tật và ma chướng của chúng ta. Chúng rời khỏi cơ thể qua các lỗ ở dưới. Người ta tưởng tượng mặt đất mởrộng sâu đến chín tầng, nơi Tử Thần và tay chân đang đứng đợi với miệng mởrộng. Họ đánh giá cao tất cả bồ hóng, mủ và côn trùng độc rơi xuống vào những chiếc miệng mở to và làm thỏa mãn họ, sau đó họ cũng khởi lên bồ đề tâm. Sau đó, mọi nợ nần về nghiệp được dọn sạch. Trì tụng, tưởng tượng các áp nghiệp chảy xuống và được tịnh hóa bởi cam lồ là hai trong bốn sức mạnh được gọi là sức mạnh của phương thức đối trị được áp dụng. Thứ ba, cũng vô cùng quan trọng, là sức mạnh của ăn năn. Thực hiện các giai đoạn của thực hành Kim Cương Tát Đỏa mà không có sự ăn năn chân
thành không thể tịnh hóa các ác nghiệp trong quá khứ. Thành thực mà nói, một sự tu tập giả bộ thì không hề hiệu quả. Chúng ta cần thực sự hối lỗi sâu sắc vì những lỗi lầm chúng ta có thể ghi nhớ, cũng như cảm thấy ăn năn vì những điều không thể nhớ. Chúng ta đã sống rất nhiều đời trong quá khứ và tập khí hay dấu ấn về nghiệp của mọi hành động đều in sâu trong tâm thức ngay lúc này.
Đức Phật từng nói rằng nếu chúng ta lấy toàn thể thế giới và nghiền vụn thành những viên nhỏ kích cỡ quả của cây đỗ tùng, chúng ta có thể đếm số quả này, nhưng chúng ta không thể đếm xem bao nhiêu đời chúng ta có. Ví dụ này được sử dụng để phát triển bồ đề tâm, nhằm minh họa cho số bà mẹ chúng ta đã có trong các đời quá khứ. Bởi chúng ta có vô số bà mẹ, chúng ta cũng có vô số đời, và mọi ác nghiệp chúng ta làm trong các đời này luôn tiềm tàng hiện hữu là tập khí. Thực hành Kim Cương Tát Đỏa có thể tịnh hóa mọi tập khí xấu tiềm tàng, nhưng chỉ khi chúng ta thấy ăn năn thực sự.
Các kiểu ác nghiệp nghiêm trọng được biết đến là ngũ nghịch tội với kết quả ngay lập tức, nghĩa là người nào phạm phải bất cứ một trong năm tội này sẽ xuống địa ngục ngay khi chết, thậm chí sẽ không qua trạng thái trung ấm. Năm hành động này là giết một vịA La Hán, giết cha hay mẹ, làm chảy máu một vị Phật với ý định xấu, và tạo ra sự bất hòa trong Tăng đoàn. Nhưng thậm chí nghiệp của những hành vi xấu xa như vậy cũng có thể được tịnh hóa bằng cách triệu thỉnh chư vị Bổn tôn an bình và phẫn nộ hay Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa trong tập hội một trăm hành giả Kim Cương thừa. Người đó cởi bỏ tất cả quần áo và tuyên bố thật to lỗi lầm trước những người hiện diện và đến toàn thể chư Phật và Bồ Tát, nói rằng, “Trong thế giới này, không có ai xấu như con. Con đã làm những việc như thế. Nguyện cầu tất thảy chư Phật rủ lòng thương đến con! Nguyện cầu tất cả các vị yogi và yogini xin hãy giúp tôi bằng cách trì tụng Thần chú Trăm Âm!” Sau đó, người đó trì tụng thần chú Trăm Âm một trăm lần cùng lúc với việc lễ lạy, trong trần truồng. Thậm chí ác nghiệp tồi tệ nhất cũng được tịnh hóa bằng cách làm như thế. Nhưng điều quan trọng là cảm thấy ăn năn.
Sức mạnh cuối cùng trong bốn sức mạnh là sức mạnh của sự quyết tâm, nghĩa là quyết định chắc chắn rằng dù phải chết cũng sẽ không tham gia vào ác nghiệp đó lần nữa.
Khi người ta đã phát triển bốn sức mạnh này, chỉ trì tụng thần chú Trăm Âm một trăm lần cũng hoàn toàn tịnh hóa các ác nghiệp, mặc dù nó có thể lớn như núi Tu Di. Thực hành bốn sức mạnh này vô cùng mạnh mẽ như một que diêm ném vào núi cỏ khô. Chỉ ném một que diêm vào nó và toàn thể đống cỏ sẽ cháy trụi.
Tôi thực sự đã nghĩ nhiều về điều này, và càng quán chiếu về các thực hành Kim Cương thừa, về Bổn tôn, thần chú và định, tôi càng thấy ngạc nhiên.
Thực sự, các thực hành này vô cùng diệu kỳ trong việc tịnh hóa các tập khí tiềm tàng trong tâm chúng ta, thứ mà ta đã tích lũy từ vô lượng kiếp. Nó chỉ bởi vì các thực hành này vô cùng rộng mở đến mức mọi lỗi lầm của chúng ta đều có thể được xóa sạch. Các ác nghiệp không có phẩm tánh lợi lạc nào, ngoại trừ việc nó có thể được xóa sạch theo kiểu này. Nếu hiệu quả của thực hành Kim Cương thừa không kỳ diệu đến thế, làm sao người ta có thể giác ngộ hoàn toàn trong chỉ một đời này.
Dĩ nhiên, khi các thực hành là thâm sâu, ma quỷ cũng vô cùng mạnh mẽ. Bởi thế, điều quan trọng là có các thực hành oai hùng và thực sự tin tưởng. Thực hành Kim Cương thừa với sự tin tưởng sai lầm, không tin tưởng rằng chúng hiệu quả, sẽ không giúp chúng ta nhiều. Trên thực tế, ý nghĩ như vậy chính là tà kiến, và không có lỗi lầm nào tệ hơn việc nuôi dưỡng những tà kiến. Điều quan trọng là tin tưởng rằng các thực hành Kim Cương thừa vô cùng vi diệu.
Trong hệ thống Kinh điển, người ta tích tập các sự tích lũy và tịnh hóa các che chướng, dần dần tiến về phía Phật quả, điều sẽ đạt được sau ba vô lượng kiếp. Vô lượng là từ để chỉ con số lớn lao được diễn tả là mười theo sau bởi năm mươi hai con số không, và không phải liên quan đến ngày mà là kiếp. Đó là một quãng thời gian vô cùng dài. Thông qua Kim Cương thừa, hoàn toàn có thể đạt
được giác ngộ chỉ trong đời này và thân này. Hãy nghĩ về sự khác biệt rõ ràng đó.
Sự tu tập Kim Cương thừa không chỉ là cố gắng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; giác ngộ thông qua những điều như thế cần đến ba vô lượng kiếp. Các thực hành Kim Cương thừa vô cùng thâm sâu. Nó được miêu tả là có nhiều phương pháp và không mấy khó khăn, và nó dành cho những người có căn cơ cao. Đây là những phẩm tánh đặc biệt của Mật thừa bí mật. Nếu Kim Cương thừa không thiện xảo đến vậy, giác ngộ trong một đời sẽ hoàn toàn không thể. Kim Cương thừa vô cùng thiện xảo trong các phương pháp để tịnh hóa che chướng và tích tập các tích lũy.
Chỉ nghĩ về một vị bổn tôn, Đức Kim Cương Tát Đỏa, và một thần chú, chú Trăm Âm – điều này rất đáng ngạc nhiên.
Một vài người giả vờ họ không có ác nghiệp và họ cũng không tạo ra thêm các ác nghiệp mới. Họ nói, “Tôi không sát sinh. Tôi không nói dối. Tôi không phạm phải các ác hạnh!” Nhưng khi chúng ta quán sát tâm vô minh, chúng ta hiểu rằng mọi ác nghiệp đều do tâm tạo, và trạng thái vô minh của tâm này liên tục tạo ra các ác nghiệp mới. Nếu chúng ta không trong trạng thái rigpa, ở đó tam độc đều được tịnh hóa, tâm bình phàm sẽ liên tục tham gia vào một trong ba độc của tâm, và như thế liên tục tạo ra ác nghiệp. Không thể nào phủ định điều đó. Các ác nghiệp vi tế này – cảm giác của sự thích, ghét, và thờ ơ– giống như nước chảy trong ống bơm: đỉnh của ống khô còn đáy thì ướt. Làm sao chúng ta có thể giả vờ rằng chúng ta không tạo ra ác nghiệp?
Có hai cách để tịnh hóa các che chướng: thông thường và tối thượng.
Cách thông thường là tham gia vào các thực hành quán tưởng, trì tụng, ăn năn và quyết tâm. Các thực hành tối thượng là tịnh hóa trạng thái vô minh của tâm bằng sự thanh tịnh ba phần, bằng việc an trú trong rigpa, trong giác tánh bất nhị. Vào thời điểm đó, thứ trói buộc toàn bộ luân hồi sẽ rơi ra. Lỗi lầm hiện hữu sẽ biến mất và lỗi lầm tương lai cũng không được tạo thêm. Trong trạng thái thanh tịnh của giác tánh đó, mọi ác nghiệp và che chướng đều được tịnh hóa. Mọi ác nghiệp được tịnh hóa, như làm màn đêm của một nghìn năm được xua tan lúc ánh đèn được bật lên.
Giống như vậy, thứ mà kết nối tâm người ta với mọi nghiệp xấu từ quá khứ là ý nghĩ quan niệm. Vào lúc ý nghĩ quan niệm biến mất, sẽ không có sợi dây buộc luân hồi lại; nó bị cắt bỏ, giống như sợi dây thừng bị cắt rồi thì không thể buộc. Hãy quán sát vào thứ mà luân hồi dựa trên, và nhận thấy rằng nó là vô minh không ngừng. Sợi dây của các khoảnh khắc vô minh này chính là sự liên tục của
vô minh, và nó được gọi là nền tảng của luân hồi. Thứ duy nhất có thể thực sự cắt đứt luân hồi là khoảnh khắc rigpa. Rigpa thực sự cắt đứt luân hồi. Khi càng quán chiếu về Pháp, tôi càng cảm thấy kinh hoàng. Giáp Pháp thật kinh ngạc! Nó giống như một di sản thực sự mà chúng ta nhận được. Kiểu di sản thông thường chúng ta nhận được khi một doanh nhân mất đi giúp ích trong việc kiếm tiền để chăm sóc thân thể, đúng không nào? Đây là những chỉ dẫn để tiếp tục luân hồi. Những thứ mà Phật để lại và truyền xuống chúng ta là những chỉ dẫn để làm trống rỗng luân hồi. Điều đó thực sự rất kỳ diệu!
Đức Tulku Urgyen Rinpoche
Trích: Vang vọng lời Phật dạy
Việt ngữ: Tuệ Tạng